Tôi không hé răng nhắc đến chuyện ly hôn, chỉ nói là do điều chuyển công tác, được điều đến thành phố này.
Nụ cười của bố cứng đờ trên khóe môi, ông ấy cẩn thận nhìn mẹ kế một cái, chữ “được” đến cửa miệng lại nuốt xuống rồi.
Mẹ kế hẳn là nghĩ tôi muốn ở lại nhà, vòng vo nói những lời kiểu như nhà không đủ chỗ ở, tôi lười khách sáo với họ, chỉ nói là công ty đã sắp xếp chỗ ở rồi.
Lần này trở về cũng chỉ là để gặp lại những người bạn lớn lên cùng nhau thuở nhỏ, gặp họ chỉ là tiện thể mà thôi.
Bạn thân từ nhỏ là Nam Duyên nghe tin tôi về, sắp xếp mấy người bạn từ nhỏ có mối quan hệ khá tốt mời tôi một bữa chào mừng.
Trên bàn tiệc mọi người nói chuyện tiền đồ, nói chuyện gia đình, tôi lúc này mới nói tới chuyện ly hôn, bạn bè ai nấy đều cảm thán, họ đều là những người đã chứng kiến tôi và Văn Thuật yêu nhau, chưa từng nghĩ chúng tôi lại ly hôn ngay năm thứ ba sau khi kết hôn.
Khi rượu đã được ba lượt, Nam Duyên say mèm hỏi tôi, trẻ thế này có tính tìm người khác nữa không?
Tôi nói: “Xem duyên phận.”
Đúng sai phải trái tôi không phải là không hiểu rõ, Văn Thuật là “tra nam”, nhưng không có nghĩa là tất cả mọi người trên đời đều “tra nam”.
Vì điều chuyển công tác nên tôi được thăng chức, mặc dù ở đây chức vụ cao, nhưng về mặt lương bổng đãi ngộ quả thực không thể sánh bằng thành phố S.
Tuy nhiên thành phố này cũng không có nhịp độ nhanh như ở thành phố S, xa rời đám đồng nghiệp toxic, tôi muộn màng nhận ra vẻ đẹp của cuộc s ố n g.
Tháng thứ ba sau khi công việc ổn định, tôi bế đứa con trai vừa tròn một tuổi của Nam Duyên lang thang trước cửa quán cà phê, sau khi loanh quanh hai vòng tôi cứ thấy có người đang nhìn mình.
Tôi nhìn quanh một lượt, cách tấm kính của quán cà phê, lờ mờ nhìn thấy người vẫn luôn nhìn tôi.
Ban ngày kính quán cà phê bị phản sáng, nhưng anh ấy đứng rất gần tấm kính, khuôn mặt đó gần như dán vào tấm kính, tôi rất khó để không nhận ra.
Chàng thiếu niên năm đó đã trưởng thành, đã trút bỏ nét non nớt, đường nét càng thêm rõ ràng.
Tôi đã nhiều năm không gặp Ôn Tự Bạch, cũng không ngờ lại gặp lại anh ấy trong tình huống này.
Nam Duyên tay bưng một ly cà phê từ trong quán cà phê chạy ra, vừa uống vừa lẩm bẩm: “Vẫn là mùi vị quen thuộc này, tớ đã gần hai năm không uống rồi…”
Tôi ngẩng đầu lên lần nữa, bên cửa sổ đã không còn bóng dáng Ôn Tự Bạch nữa, tôi nói với Nam Duyên tôi nhìn thấy Ôn Tự Bạch, ly cà phê Nam Duyên vừa uống được hai ngụm rơi xuống đất, vương vãi khắp sàn.
Ôn Tự Bạch là người lớn lên cùng mấy đứa chúng tôi, chỉ là năm lớp Tám năm ấy, anh ấy theo gia đình rời khỏi thành phố này, từ đó về sau không ai gặp lại anh ấy nữa.
Nam Duyên thuận theo hướng tôi chỉ nhưng không nhìn thấy Ôn Tự Bạch, cô ấy nói tôi nhìn nhầm rồi, Ôn Tự Bạch sao có thể ở…
Lời nói của Nam Duyên chưa dứt, khi nhìn thấy dáng người vừa lạ lẫm vừa quen thuộc bước ra từ trong quán cà phê, chợt khựng lại.
“Ôn,” mắt cô ấy trợn khá to, “Ôn Tự Bạch?”
Ôn Tự Bạch gật đầu với cô ấy, rồi ánh mắt lướt qua tôi nhìn đứa bé trong lòng tôi, lông mày anh ấy khẽ nhướng lên, trên người dường như vẫn còn vương lại vài phần khí chất lưu manh thời niên thiếu: “Con của cậu à?”
Thân hình anh ấy cực kỳ cao ráo, cao hơn tôi và Nam Duyên gần một cái đầu.
Cứ thế áp s á t lại gần, cảm giác áp bách cực lớn.
Tôi theo bản năng gật đầu, phản ứng lại thì vội vàng lắc đầu: “Không phải, là của Nam Duyên.”
Nam Duyên kịp thời đưa tay ra, đón lấy đứa bé từ trong lòng tôi, cười gượng gạo nhưng không kém phần lịch sự: “Là con của tôi.”
Thế là, Ôn Tự Bạch mỉm cười.
Nụ cười này, giống như dòng suối trong không gợn sóng bị người ta ném vào một viên đá nhỏ, gợn lên từng lớp sóng lăn tăn, uyển chuyển mà thanh thoát.